Xin lưu ý Menus của chúng tôi Có thể khác nhau giữa các cửa hàng.
Xin lưu ý Menus của chúng tôi Có thể khác nhau giữa các cửa hàng.
Trên đây là danh sách những tiệm bánh mì gần đây nhất ở từng Quận Huyện tại TPHCM. Hi vọng những quán mà chúng tôi cung cấp sẽ giúp bạn lựa chọn một nơi ưng ý nhất để thưởng thức bánh mì.
Danh sách các món ăn khác liên quan tới bánh mì mà có thể bạn sẽ thích:
Quan hệ Nhật Bản - Nga dưới thời kỳ Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe
Trở ngại lớn nhất trong quan hệ Nhật Bản - Nga là vấn đề tranh chấp bốn đảo, bao gồm Etorufu, Kunashiri, Shikotan và Habomai, được Nhật Bản gọi là “lãnh thổ phương Bắc” và Nga gọi là “quần đảo Nam Kuril”. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, theo Hiệp định Yalta, các cường quốc thắng trận, gồm Liên Xô (trước đây), Mỹ và Anh thống nhất trao quần đảo Kuril cho Liên Xô. Tuy nhiên, Nhật Bản không chấp nhận và không công nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận này. Năm 1956, hai nước khôi phục quan hệ ngoại giao thông qua ký kết Tuyên bố chung nhân chuyến thăm Nga của Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama Yukio, tuy nhiên vẫn chưa ký kết Hiệp ước hòa bình và chưa tìm được giải pháp cho vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Nhiệm kỳ thứ hai của Thủ tướng Nhật Bản S. Abe chứng kiến cách tiếp cận mới của Nhật Bản đối với Nga, theo đó nhiều giải pháp đã được Chính phủ Nhật Bản thúc đẩy. Trọng tâm trong nỗ lực của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe là giải quyết tranh chấp lãnh thổ lâu đời và thúc đẩy các cuộc đàm phán hòa bình bằng cách sử dụng các động lực kinh tế. Chính sách này được phát triển dựa trên lợi ích của Nhật Bản trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều thay đổi, đồng thời cũng có nhiều điểm song trùng với những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy nỗ lực tiếp cận và giải quyết vấn đề lịch sử trong quan hệ với Nga của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe chính là những cân nhắc, tính toán của Nhật Bản đến vấn đề cân bằng địa - chính trị chiến lược trong khu vực. Sự trỗi dậy và ngày càng quyết đoán của Trung Quốc tại khu vực, tính phức tạp của vấn đề tranh chấp lãnh thổ liên quan đến quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản, lợi ích ngày càng chặt chẽ và mối quan hệ có xu hướng ngày càng bền chặt giữa Nga và Trung Quốc đặt ra nhiều thách thức, khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách của Nhật Bản. Bên cạnh đó, việc tiếp cận các nguồn tài nguyên dồi dào của Nga, nhất là dầu mỏ, cũng là một mục tiêu chiến lược trong bối cảnh Nhật Bản gặp nhiều khó khăn về vấn đề tự chủ năng lượng sau thảm họa hạt nhân Fukushima.
Về phía Nga, ưu tiên của Nga là phát triển quan hệ với Nhật Bản để tìm kiếm những lợi ích về kinh tế và an ninh. Nga cần Nhật Bản như một thị trường quan trọng về các nguồn đầu tư và công nghệ, cũng như là một đối tác tiềm năng để phát triển vùng Bắc Cực. Bên cạnh đó, về khía cạnh địa - chính trị, thúc đẩy quan hệ với Nhật Bản có thể giúp Nga cân bằng cán cân quyền lực tại khu vực, nhất là trong bối cảnh sự trỗi dậy của Trung Quốc đã và đang ảnh hưởng lớn tới lợi ích của tất cả các bên và đối với Nga là sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc ở vùng Viễn Đông cùng hoạt động ngày càng tích cực của Trung Quốc ở khu vực Trung Á, nhất là Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI). Tìm kiếm cải thiện quan hệ và thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ hơn với những đối tác lớn, như Ấn Độ, Nhật Bản là một lựa chọn có ý nghĩa chiến lược về an ninh đối với Nga. Có thể nói, ưu tiên mới của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản S. Abe trong cải thiện quan hệ với Nga được bổ sung và có nhiều nét song trùng với chính sách “hướng Đông” của Tổng thống Nga Vladimir Putin, với mục tiêu tập trung vào phát triển vùng Viễn Đông của Nga thông qua tăng cường quan hệ với các quốc gia Đông Bắc Á.
Dưới thời kỳ Thủ tướng Nhật Bản S. Abe, về cơ bản, Nhật Bản đã thay đổi lập trường vốn trước nay kiên định, rằng “không tách rời vấn đề kinh tế và chính trị”, nghĩa là giải quyết vấn đề lãnh thổ là mấu chốt trong phát triển toàn diện quan hệ Nhật Bản - Nga. Thay vào đó, Nhật Bản sử dụng chính sách thúc đẩy hợp tác kinh tế song song với đàm phán về lãnh thổ, đặt mục tiêu thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai nước, nuôi dưỡng lòng tin và coi các khoản đầu tư là đòn bẩy chính trị để làm dịu quan điểm của Nga trong vấn đề lãnh thổ.
Về kinh tế, Thủ tướng Nhật Bản S. Abe đã công bố kế hoạch 8 điểm nhằm cải thiện can dự kinh tế của Nhật Bản đối với Nga, tập trung vào các lĩnh vực, như chăm sóc sức khỏe, kết cấu hạ tầng đô thị cho các thành phố thông minh, năng lượng, đa dạng hóa công nghiệp và nâng cao năng suất, phát triển các cơ sở công nghiệp ở vùng Viễn Đông, hợp tác về công nghệ tiên tiến và giao lưu nhân dân.
Về chính trị, cân nhắc lợi ích về an ninh và địa - chính trị đã làm nền tảng cho nỗ lực tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga, được thể hiện qua việc hai bên thiết lập Đối thoại quốc phòng và chính sách đối ngoại 2+2 vào năm 2013. Sách Xanh Ngoại giao Nhật Bản năm 2016 đã nhấn mạnh việc cải thiện quan hệ với Nga đóng góp cho lợi ích của Nhật Bản cũng như đối với hòa bình và thịnh vượng khu vực. Thủ tướng Nhật Bản S. Abe tham dự Diễn đàn kinh tế phương Đông thường niên do Nga tổ chức hằng năm từ năm 2016 đến năm 2019, đồng thời với những nỗ lực xây dựng quan hệ cá nhân với Tổng thống Nga V. Putin. Trong 8 năm cầm quyền, hai nhà lãnh đạo đã có 27 cuộc gặp thượng đỉnh. Sự chuyển hướng này đã tác động tích cực thúc đẩy quan hệ Nhật Bản - Nga trở nên nồng ấm hơn. Cuộc khủng hoảng Crime năm 2014 có tác động nhất định tới tiến triển trong quan hệ Nhật Bản - Nga, tuy nhiên Nhật Bản vẫn nỗ lực duy trì chính sách ngoại giao khá mềm mỏng với Nga. Nhật Bản cùng các nước thành viên Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7) triển khai các biện pháp trừng phạt Nga, song lệnh trừng phạt của Nhật Bản không nhắm vào đầu tư, công nghệ, du lịch và quan trọng hơn là lĩnh vực năng lượng của Nga. Kể từ năm 2016, Nhật Bản đẩy mạnh việc tiếp cận với Nga và nỗ lực thu hẹp những khác biệt giữa Nga và phương Tây trên cương vị Chủ tịch G-7. Tháng 5-2016, một bước đột phá quan trọng đã đạt được giữa hai nước trong bối cảnh Nga vẫn bị các nước G-7 cô lập, đó là Nga và Nhật Bản tổ chức Hội nghị thượng đỉnh tại thành phố Sochi (Nga) và Thủ tướng Nhật Bản S. Abe khi đó đã công bố “cách tiếp cận mới” đối với quan hệ hai nước, trong đó đề cập đến cách tiếp cận linh hoạt đối với vấn đề đàm phán tranh chấp lãnh thổ, ưu tiên thúc đẩy hợp tác kinh tế. Hai bên chia sẻ quan điểm cần tích cực tiến hành các cuộc đàm phán hướng tới xây dựng các giải pháp mà hai bên chấp nhận được, thông qua cách tiếp cận mới, không phụ thuộc vào lối suy nghĩ truyền thống nhằm khai thông bế tắc và tạo bước đột phá. Tháng 12-2016, tại Hội nghị thượng đỉnh Yamaguchi, hai bên nhất trí bắt đầu đàm phán về các dự án kinh tế chung trên bốn hòn đảo tranh chấp. Tại Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tổ chức ở Singapore vào tháng 11-2018, hai nhà lãnh đạo Nga - Nhật Bản nhất trí đẩy nhanh đàm phán Hiệp ước hòa bình Nga - Nhật Bản dựa trên Tuyên bố chung Nhật Bản - Liên Xô năm 1956.
Những thay đổi trong cách tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga thời gian gần đây
Mặc dù quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện đáng kể nhưng vấn đề tranh chấp lãnh thổ vẫn chưa đạt được tiến triển khả quan dù trải qua không ít vòng đàm phán. Yếu tố chính là lập trường ngày càng cứng rắn của Nga, nhất là sau khi Nga thông qua bản sửa đổi Hiến pháp, có hiệu lực vào năm 2020. Bản sửa đổi này quy định, nghiêm cấm các hành động nhằm từ bỏ bất kỳ lãnh thổ nào của Nga ngoại trừ các trường hợp phân định, phân giới hoặc tái phân giới. Nga cho rằng, đối tượng đàm phán vấn đề Hiệp ước hòa bình Nga - Nhật Bản trên thực tế đã không còn tồn tại do Nhật Bản không sẵn sàng đàm phán khi chưa làm rõ quyền sở hữu đối với quần đảo Nam Kuril, trong khi đó Nga không có quyền nhượng lại lãnh thổ sau khi thông qua bản Hiến pháp sửa đổi.
Quan hệ Nhật Bản - Nga chững lại sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát và việc Thủ tướng Nhật Bản S. Abe từ chức vào năm 2020. Trong gần hai năm cầm quyền của Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga (2020 - 2021), chính sách đối ngoại của Nhật Bản về cơ bản vẫn duy trì như dưới thời kỳ chính quyền tiền nhiệm nhưng không giữ được đà mạnh mẽ như giai đoạn trước trong quan hệ với Nga. Ngoài ra, sự thay đổi chính quyền ở Mỹ với việc ông Joe Biden đắc cử Tổng thống Mỹ cũng đã có những tác động đến cách tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga. Việc chính quyền Tổng thống Mỹ J. Biden chú trọng đến ngoại giao liên minh, thúc đẩy liên minh Mỹ - Nhật Bản và việc Mỹ theo đuổi cách tiếp cận cứng rắn với chính quyền Tổng thống Nga V. Putin đã thu hẹp không gian của Nhật Bản trong triển khai các biện pháp cải thiện quan hệ với Nga. Tuy nhiên, hai bên vẫn chưa từ bỏ hoàn toàn nỗ lực thúc đẩy ký kết hiệp ước hòa bình và hợp tác thiết thực. Tháng 10-2021, sau khi nhậm chức, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Nga V. Putin, bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ Nhật Bản - Nga một cách toàn diện theo hướng cùng có lợi. Tổng thống Nga V. Putin cũng bày tỏ sẵn sàng triển khai hợp tác mang tính xây dựng với Nhật Bản trong các vấn đề song phương và các vấn đề quốc tế.
Cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay thực sự đánh dấu kết thúc một thập niên Nga và Nhật Bản tìm kiếm và nỗ lực triển khai cách tiếp cận tích cực trong quan hệ song phương. Không giống cuộc khủng hoảng Crime năm 2014, Nhật Bản có quan điểm và phản ứng rất cứng rắn đối với hành động của Nga tại Ukraine, theo sát các bước đi tổng thể của G-7, nhanh chóng đưa ra những biện pháp trừng phạt, thậm chí đóng vai trò tiên phong trong các nước tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đối với việc trừng phạt Nga. Danh sách các biện pháp trừng phạt của Nhật Bản, bao gồm: ngăn chặn nguồn tài chính cho Nga từ các tổ chức đa phương như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), đóng băng tài sản của 9 ngân hàng Nga và hơn 100 công dân Nga có liên quan đến Chính phủ Nga, bao gồm cả Tổng thống Nga V. Putin. Nhật Bản còn cùng G-7 cô lập Nga khỏi hệ thống tài chính quốc tế và nền kinh tế toàn cầu thông qua việc loại một số ngân hàng của Nga khỏi hệ thống thanh toán của Hiệp hội Viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT). Thêm vào đó, Nhật Bản chính thức hủy bỏ quy chế tối huệ quốc của Nga và cấm các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư mới vào Nga, áp đặt các biện pháp hạn chế xuất khẩu chất bán dẫn và thiết bị lọc dầu đối với các thực thể có liên quan đến lực lượng quân đội Nga. Nhật Bản cũng cam kết giảm sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga, bao gồm việc loại bỏ dần và cấm nhập khẩu than của Nga. Ngoài việc áp đặt các biện pháp trừng phạt Nga, Nhật Bản cũng có những hành động cụ thể thể hiện sự ủng hộ đối với Ukraine, như gửi thiết bị quân sự, viện trợ nhân đạo khẩn cấp và hỗ trợ tài chính cho Ukraine. Xung đột Nga - Ukraine cũng thúc đẩy Nhật Bản can dự chặt chẽ hơn với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tháng 4-2022, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản đã tham dự cuộc họp của NATO và lần đầu tiên trong lịch sử 73 năm của NATO, Thủ tướng Nhật Bản K. Fumio tham dự Hội nghị thượng đỉnh NATO, được tổ chức tại Thủ đô Madrid (Tây Ban Nha) vào tháng 6-2022 với tư cách là đối tác châu Á - Thái Bình Dương của tổ chức này. Tại hội nghị, Thủ tướng Nhật Bản đã đề xuất cho phép lực lượng phòng vệ Nhật Bản có đại diện thường trực tại trụ sở NATO, tiến hành trao đổi quan sát viên trong các cuộc tập trận của NATO, cho rằng an ninh của châu Âu không thể tách rời khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và những nỗ lực thay đổi hiện trạng bằng vũ lực ở bất kỳ khu vực nào cũng cần được ngăn chặn thông qua các nỗ lực chung.
Có thể thấy, hành động quân sự của Nga ở Ukraine đã tác động trực tiếp, thay đổi gần như hoàn toàn cách tiếp cận của Chính phủ Nhật Bản trong quan hệ song phương với Nga và như một hệ quả tất yếu, với việc hai bên quay lại lập trường cứng rắn đối với vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Để đáp trả các lệnh trừng phạt của Nhật Bản, Nga đã tiến hành các cuộc tập trận quân sự tại các đảo tranh chấp và phóng tên lửa hành trình từ tàu ngầm ở biển Nhật Bản. Ngày 21-3-2022, Nga tuyên bố chấm dứt đàm phán về Hiệp định hòa bình Nga - Nhật Bản, rút khỏi đối thoại Nga - Nhật Bản về hoạt động kinh tế chung trên các đảo tranh chấp. Thêm vào đó, Nga xác định Nhật Bản là quốc gia “không thân thiện” và cấm 63 công dân Nhật Bản nhập cảnh vào Nga, rút lại quyền nhập cảnh miễn thị thực đối với công dân Nhật Bản.
Có thể nói, phản ứng mạnh mẽ và sự thay đổi có tính bước ngoặt trong cách tiếp cận của Nhật Bản đối với Nga trước hành động của Nga ở Ukraine cho thấy những đánh giá và tính toán quyết đoán trong chính sách đối ngoại của chính quyền Thủ tướng Nhật Bản K. Fumio, phản ánh sâu sắc những quan ngại của Nhật Bản về hậu quả cũng như những tác động của cuộc khủng hoảng an ninh tại châu Âu và những tiền lệ mà cuộc xung đột tại Ukraine có thể tạo ra đối với an ninh tại Đông Á, nhất là liên quan đến vấn đề an ninh tại biển Hoa Đông và “điểm nóng” Đài Loan (Trung Quốc). Tình hình tại Ukraine cũng thúc đẩy Nhật Bản xích lại gần hơn với phương Tây, củng cố liên minh Mỹ - Nhật Bản, thắt chặt quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), G-7 và NATO. Quan hệ Nhật Bản - Nga hiện đang ở mức thấp nhất kể từ sau Chiến tranh lạnh. Những diễn biến mới này trong quan hệ Nhật Bản - Nga không chỉ tác động lâu dài đến quan hệ song phương vốn đã nhiều trắc trở trong lịch sử, mà còn tác động sâu sắc đến cục diện và tương quan lực lượng an ninh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương với việc Nga ngày càng hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, trong khi đó liên minh Mỹ - Nhật Bản ngày càng được thắt chặt và tình trạng phân cực, phân tuyến trong tập hợp lực lượng tại khu vực này ngày càng gay gắt, khó đoán định./.
Phần lớn các tổng thống Mỹ kiếm được nhiều tiền từ xuất bản sách và diễn thuyết - Ảnh: AFP
Tổng thống Mỹ thường được coi là vị trí quyền lực. Ngoài tầm ảnh hưởng to lớn về chính trị, kinh tế và xã hội, tổng thống Mỹ còn được hưởng một loạt quyền lợi, đáng chú ý nhất là mức lương 400.000 USD hằng năm.
Tổng thống Mỹ sau khi rời nhiệm sở cũng tiếp tục được hưởng một loạt phúc lợi, bao gồm lương hưu hằng tháng, chăm sóc y tế và được Cơ quan Mật vụ bảo vệ. Việc trở thành tổng thống cũng mang lại nhiều cơ hội kiếm tiền, như hợp đồng xuất bản sách hay công việc diễn giả.
Hiện có 6 tổng thống Mỹ còn sống, trong đó ông Trump là người có tài sản lớn nhất, dựa theo Celebrity Net Worth, trang thông tin ước tính tổng tài sản và hoạt động tài chính của những người nổi tiếng.
6. Joe Biden, tổng thống thứ 46 (2021 - nay): 9 triệu USD
Đương kim Tổng thống Mỹ Joe Biden - Ảnh: DPA
Với giá trị tài sản ròng ước tính khoảng 9 triệu USD, đương kim Tổng thống Joe Biden đứng cuối danh sách.
Trước khi làm việc tại Nhà Trắng với tư cách là phó tổng thống của ông Obama, ông Biden nổi tiếng với việc tự gọi mình là "thuộc tầng lớp trung lưu", một trong những thành viên "nghèo nhất" của Quốc hội.
Sau thời gian làm phó tổng thống, tài sản ròng của ông Biden tăng vọt lên hàng triệu USD. Số tiền ông Biden kiếm được sau năm 2017 chủ yếu là từ các bài phát biểu và hợp đồng xuất bản sách.
Chỉ riêng từ năm 2017 đến 2018, có báo cáo cho rằng ông Biden được thuê diễn thuyết 40 lần, với mức phí lên tới 5 hoặc 6 con số cho mỗi lần.
5. Jimmy Carter, tổng thống thứ 39 (1977 - 1981): 10 triệu USD
Ông Jimmy Carter nay đã 97 tuổi - Ảnh: AFP
Jimmy Carter năm nay 97 tuổi, là tổng thống lớn tuổi nhất và duy nhất có nhiệm kỳ thuộc thế kỷ trước.
Ông Carter từng là sĩ quan hải quân và thống đốc bang Georgia. Ngoài lương hưu, ông Carter còn viết hơn 30 cuốn sách và tự khẳng định mình là một nhà ngoại giao toàn cầu thúc đẩy hòa bình và các nỗ lực từ thiện khác.
Ông thành lập Trung tâm Carter, một tổ chức nhằm giải quyết các xung đột toàn cầu và chống lại dịch bệnh.
Theo báo Washington Post, ông Carter cũng kiếm tiền từ việc kinh doanh và trang trại đậu phộng của gia đình.
4. George W. Bush, tổng thống thứ 43 (2001 - 2009): 50 triệu USD
Ông George W. Bush (trái) cùng cha - Ảnh: GETTY
Trước khi bước chân vào chính trị theo cha, ông Bush có sự nghiệp trong quân đội Mỹ và cả kinh doanh.
Theo báo Washington Post, vào cuối những năm 1970, ông Bush thành lập công ty thăm dò dầu khí Arbusto Energy.
Ông Bush khá thành công trong kinh doanh khi mua đội bóng chày Texas Rangers rồi đầu tư nửa triệu USD vào nhượng quyền thương mại. Vào năm 1998, ông Bush bán cổ phần của mình và thu về 15 triệu USD.
Ngoài tiền lương tổng thống và các giao dịch kinh doanh trước khi làm chính trị, ông Bush có một số tài sản đầu tư, bao gồm một trang trại rộng 600 ha ở Texas.
3. Barack Obama, tổng thống thứ 44 (2009 - 2017): 70 triệu USD
Cựu tổng thống Mỹ Barack Obama - Ảnh: REUTERS
Trước khi làm tổng thống, ông Obama được cho là không giàu có. Ông Obama từng kiếm được hơn 3,3 triệu USD tiền bản quyền sách cho Dreams of My Father, cuốn sách ông viết vào những năm 1990 trước khi trở thành một nhân vật chính trị.
Ông Obama làm tổng thống 2 nhiệm kỳ (8 năm) với mức lương 400.000 USD/năm. Mức lương hưu của ông Obama 205.700 USD/năm.
Sau khi rời Nhà Trắng, ông ký hợp đồng xuất bản sách trị giá 65 triệu USD, bao gồm cuốn hồi ký của vợ ông là Michelle Obama.
2. Bill Clinton, tổng thống thứ 42 (1993 - 2001): 100 triệu USD
Ông Clinton tính phí cao cho mỗi lần diễn thuyết - Ảnh: GETTY
Giá trị tài sản ròng của ông Clinton khoảng 100 triệu USD, phần lớn đến sau nhiệm kỳ tổng thống.
Một bài báo của Forbes năm 2016 đã phân tích cách ông Clinton kiếm được nhiều tiền sau khi rời Nhà Trắng. Theo đó, ông Clinton tính phí diễn thuyết 125.000 USD/lần, kiếm tiền từ xuất bản sách và việc tư vấn riêng.
Theo Forbes, chỉ tính riêng từ năm 2001 đến năm 2015, tài sản của ông Clinton tăng 38 triệu USD từ việc xuất bản sách, bao gồm cuốn hồi ký bán chạy nhất nói về cuộc đời ông.
1. Donald Trump, tổng thống thứ 45 (2017 - 2021): 3 tỉ USD
Ông Trump đã là tỉ phú bất động sản trước khi làm tổng thống - Ảnh: AFP
Không có gì ngạc nhiên khi Donald Trump là người giàu nhất trong danh sách. Trước nhiệm kỳ tổng thống thứ 45, ông Trump được biết đến như một tỉ phú bất động sản và ngôi sao truyền hình.
Theo Forbes, tài sản của nhà kinh doanh trở thành chính trị gia này vào khoảng 3 tỉ USD. Khối tài sản khổng lồ này được cho là đến từ bất động sản ở New York và nhiều nguồn khác như dự án truyền thông, sân golf và nhà máy rượu 500 ha ở Charlottesville, bang Virginia.
Theo 24/7 Wall St, ông Trump giàu đến mức là tổng thống Mỹ giàu nhất mọi thời đại, thậm chí giàu hơn các nhà lãnh đạo đầu tiên của Mỹ như George Washington và Thomas Jefferson.